I. TIN TỨC, SỰ KIỆN
1. Tuổi trẻ Quảng Nam tình nguyện tại nước bạn Lào
Tỉnh đoàn Quảng Nam vừa có chuyến tình nguyện tại nước bạn Lào và hội đàm với Tỉnh đoàn Sê Kông về Tổng kết biên bản ghi nhớ hợp tác giai đoạn 2018 - 2023 và thống nhất biên bản ghi nhớ giai đoạn 2023 - 2028.
Tham dự có đồng chí Phạm Thị Thanh, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đoàn, Tỉnh ủy viên, Bí thư Tỉnh đoàn Quảng Nam, đồng chí Toulanvanh Vongsay, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đoàn, Bí thư Tỉnh đoàn Sê Kông cùng các đồng chí là Phó Bí thư, lãnh đạo các ban chuyên môn Tỉnh đoàn và các đồng chí Bí thư, Phó Bí thư các huyện kết nghĩa của hai tỉnh.
Tại buổi hội đàm, Tỉnh đoàn Quảng Nam và Tỉnh đoàn Sê Kông đã tổng kết biên bản ghi nhớ hợp tác giai đoạn 2018 - 2023 và thống nhất biên bản ghi nhớ giai đoạn 2023 - 2028; trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm trong công tác đoàn và phong trào thanh thiếu nhi giữa 2 tỉnh.
Phát huy kết quả đạt được, Đoàn Thanh niên tỉnh Quảng Nam và Sê Kông đã đi đến thống nhất ký kết Biên bản ghi nhớ giai đoạn 2023 - 2028 gồm 7 nội dung, tập trung vào các hoạt động như tuyên truyền, giáo dục về quan hệ hữu nghị vĩ đại, tình đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam cho nhân dân và thanh thiếu nhi hai nước.
Trong chuyến công tác, đoàn tình nguyện Tỉnh đoàn Quảng Nam đã thực hiện nhiều hoạt động tại tỉnh Sê Kông (Lào) như: trao tặng 01 máy tính xách tay; 10 bóng đèn năng lượng mặt trời; 100 cây bưởi da xanh; 30 suất quà cho cán bộ Tỉnh đoàn Sê Kông.
Huyện đoàn Phú Ninh, Nam Giang, Tây Giang và Thành đoàn Tam Kỳ cũng có những món quà dành cho các đơn vị kết nghĩa tại Lào. Tổng kinh phí quà tặng trên 100 triệu đồng.
Bên cạnh đó, Đoàn tình nguyện đã triển khai hàng loạt hoạt động như: Trao tặng 50 suất quà cho người dân có hoàn cảnh khó khăn; tổ chức khám chữa bệnh, cấp phát thuốc miễn phí cho 250 người dân; tổ chức tập huấn kỹ thuật trồng cây ăn quả cho thanh niên và người dân tại huyện Kà Lừm (tỉnh Sê Kông).
Ngoài ra, trong chuyến tình nguyện, đoàn công tác còn có hoạt động giao lưu văn hóa, thể thao giữa Tỉnh đoàn Quảng Nam và Tỉnh đoàn Sê Kông…
Hoạt động lần này được tổ chức nhằm tiếp tục phát huy tinh thần xung kích tình nguyện của tuổi trẻ trong hỗ trợ, giúp đỡ và chia sẻ khó khăn với nhân dân các bộ tộc Lào, qua đó phát huy truyền thống đoàn kết hữu nghị keo sơn gắn bó giữa tuổi trẻ hai tỉnh Quảng Nam và Sê Kông nói riêng và nhân dân hai nước nước Việt - Lào nói chung.
Đường link: https://tinhdoanqnam.vn/news/3-phong-trao/tuoi-tre-quang-nam-tinh-nguyen-tai-nuoc-ban-lao-5088.html
2. Lãnh đạo Công an tỉnh và Thường trực Tỉnh đoàn đối thoại với đoàn viên thanh niên Công an tỉnh
Công an tỉnh Quảng Nam vừa tổ chức Hội nghị đối thoại giữa lãnh đạo Công an tỉnh và Thường trực Tỉnh đoàn với đoàn viên, thanh niên (ĐVTN) Công an tỉnh năm 2023. Đại tá Võ Thị Trinh – Phó Giám đốc Công an tỉnh và đồng chí Đặng Thị Bảo Trinh - Phó Bí thư Tỉnh đoàn đồng chủ trì Hội nghị đối thoại. Hội nghị được kết nối trực tuyến từ điểm cầu trung tâm Công an tỉnh Quảng Nam đến 18 điểm cầu tại Công an các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh.
Với tinh thần đối thoại cởi mở, Hội nghị đã nhận được nhiều câu hỏi cụ thể, thiết thực của ĐVTN Công an các đơn vị, địa phương nêu lên suy nghĩ, tâm tư, nguyện vọng của ĐVTN; những vấn đề còn tồn tại, hạn chế, những khó khăn, vướng mắc đang đặt ra trong thực tiễn cần thiết phải có định hướng, chỉ đạo của Đảng ủy, Lãnh đạo Công an tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh đoàn.
Lãnh đạo Công an tỉnh, Thường trực Tỉnh đoàn và đại diện lãnh đạo các đơn vị, địa phương đã trao đổi, giải đáp các nội dung câu hỏi của ĐVTN tại Hội nghị đối thoại, qua đó nhằm giải quyết thấu đáo những khó khăn, vướng mắc, kiến nghị, đề xuất liên quan của ĐVTN, góp phần định hướng phát triển công tác thanh niên và Chương trình phát triển thanh niên Công an giai đoạn 2022-2030; quan tâm, chăm lo xây dựng phát triển tổ chức Đoàn và bồi dưỡng ĐVTN; chủ động nắm tình hình và làm tốt công tác định hướng tư tưởng trong thanh niên; tạo mọi cơ chế, điều kiện thuận lợi nhất để ĐVTN rèn luyện, cống hiến và trưởng thành.
Phát biểu kết luận Hội nghị, Đại tá Võ Thị Trinh – Phó Giám đốc Công an tỉnh ghi nhận, biểu dương sự nỗ lực, cố gắng và những kết quả, thành tích mà cán bộ, đoàn viên thanh niên toàn Công an tỉnh đã đạt được trong thời gian vừa qua. Đại tá Võ Thị Trinh nhấn mạnh: Hội nghị đối thoại là diễn đàn để ĐVTN bày tỏ suy nghĩ, tâm tư, tình cảm, khát vọng cống hiến; đề xuất những nguyện vọng chính đáng trong học tập, rèn luyện, công tác và chiến đấu, qua đó nhằm tăng cường công tác trao đổi, nắm bắt tình hình, quan tâm, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho đội ngũ cán bộ đoàn, ĐVTN. Đây cũng là dịp để lãnh đạo Công an tỉnh, Thường trực Tỉnh đoàn và cấp ủy, lãnh đạo Công an các đơn vị, địa phương nắm sâu hơn về tình hình tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tâm tư, tình cảm, nguyện vọng. Đồng thời là diễn đàn quan trọng để tuổi trẻ nghiên cứu, đề xuất, hiến kế với Đảng ủy, lãnh đạo Công an tỉnh trong lãnh đạo, chỉ đạo nhiệm vụ chính trị, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng Công an tỉnh trong sạch, vững mạnh. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược xây dựng lực lượng Công an Quảng Nam thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, Đại tá Võ Thị Trinh yêu cầu lực lượng đoàn viên, thanh niên phải thật sự nỗ lực, sẵn sàng nhận, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ với quyết tâm cao nhất; giáo dục, nêu cao ý thức tận tụy phục vụ nhân dân của đoàn viên thanh niên; tiếp tục triển khai hiệu quả các phong trào thi đua, các phong trào hành động cách mạng của Đoàn mà trọng tâm, xuyên suốt là phong trào "Thanh niên CAND học tập, thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy".
Thay mặt Đảng uỷ, lãnh đạo Công an tỉnh, Đại tá Võ Thị Trinh cũng cảm ơn và đề nghị Tỉnh đoàn Quảng Nam tiếp tục quan tâm chỉ đạo các hoạt động của tuổi trẻ Công an tỉnh; phối hợp đồng hành, hỗ trợ thanh niên Công an trên các lĩnh vực, nhất là việc giới thiệu việc làm cho chiến sĩ nghĩa vụ sau xuất ngũ; phối hợp nghiên cứu, triển khai các chương trình, đề án phát huy thanh thiếu niên trong đảm bảo an ninh trật tự, góp phần củng cố, xây dựng phong trào "Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc" và nền an ninh nhân dân vững chắc.
Đường link: https://tinhdoanqnam.vn/news/xay-dung-doan/lanh-dao-cong-an-tinh-va-thuong-truc-tinh-doan-doi-thoai-doan-vien-thanh-nien-cong-an-tinh-5090.html
3.Diễn đàn Khát vọng khởi nghiệp xứ Quảng
Chiều 25/8, tại Hội trường Công an tỉnh Quảng Nam, Diễn đàn Khát vọng khởi nghiệp xứ Quảng năm 2023 được tổ chức với sự tham gia của hơn 300 ĐVTN, hội viên nông dân, phụ nữ, chủ các doanh nghiệp, mô hình kinh tế, các HTX, Tổ hợp tác, Câu lạc bộ làm kinh tế. Diễn đàn do Tỉnh đoàn Quảng Nam phối hợp với Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh tổ chức trong khuôn khổ Techfest Quảng Nam 2023.
Phát biểu tại diễn đàn, đồng chí Trần Anh Tuấn – Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam cho biết, cùng với cả nước, tại Quảng Nam tinh thần khởi nghiệp sáng tạo, đổi mới đã lan tỏa rộng rãi trong đông đảo đoàn viên, thanh niên, hội viên phụ nữ, nông dân; ngày càng có nhiều mô hình thanh niên, phụ nữ, nông dân khởi nghiệp sáng tạo được hình thành và phát huy hiệu quả kinh tế; các hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp được triển khai bài bản, có hệ thống và phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức. Tuy nhiên, thực tế còn những hạn chế: các mô hình phát triển kinh tế nói chung và mô hình khởi nghiệp của các tổ chức, cá nhân nói riêng có quy mô nhỏ, rất ít mô hình phát triển kinh tế với quy mô lớn và xây dựng thương hiệu có giá trị, chưa có nhiều những mô hình phát triển kinh tế tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của tỉnh; việc tiếp cận thị trường, kiến thức về khoa học, kỹ thuật, cơ chế chính sách hỗ trợ khởi nghiệp còn hạn chế... Phó Chủ tịch UBND tỉnh Trần Anh Tuấn hy vọng diễn đàn sẽ là nơi khơi dậy khí thế, lan tỏa tinh thần khởi nghiệp, khởi nghiệp sáng tạo, khát vọng vươn lên làm giàu cho đoàn, hội viên có nhiệt huyết, giàu đam mê, sẵn sàng dấn thân.
Tại diễn đàn, nhiều ý kiến thảo luận của bạn trẻ đề cập đến phát triển kinh tế số, lập nghiệp ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế khó khăn của tỉnh tham gia phát triển kinh tế số; Chính sách vay vốn phát triển kinh tế, khởi nghiệp; Các mô hình chuyển đổi số và vai trò của tổ chức, cá nhân trong công cuộc chuyển đổi số; Kỹ năng ứng dụng chuyển đổi số để nâng cao lợi thế cạnh tranh và tối ưu hóa quản trị doanh nghiệp; ứng dụng chuyển đổi số trong xây dựng, phát triển các mô hình kinh tế; giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền trong thời kỳ chuyển đổi số, công nghệ số;…
Lãnh đạo tỉnh, sở, ngành, địa phương cũng đã giải đáp, trao đổi về các chủ trương, cơ chế, chính sách khởi sự doanh nghiệp, phát triển mô hình kinh tế cá nhân; đề ra định hướng và các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu hỗ trợ các cá nhân, tổ chức khởi nghiệp, phát triển công nghiệp thông minh tại Quảng Nam trong thời gian tới.
Đường link: https://tinhdoanqnam.vn/news/khoi-nghiep-lap-nghiep/dien-dan-khat-vong-khoi-nghiep-xu-quang-5079.html
II. HỌC TẬP VÀ LÀM THEO LỜI BÁC
Bí quyết thành công của nhà chính trị Hồ Chí Minh
Tại sao trong cùng hoàn cảnh lịch sử, nhiều người Việt Nam ra đi tìm đường cứu nước, nhưng chỉ có Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử của mình đối với Tổ quốc và đồng bào. Từ góc nhìn chính trị học, bài viết phân tích, luận giải các sự kiện và minh chứng lịch sử, làm rõ bí quyết thành công của nhà chính trị Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giành lại độc lập dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam.
TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC TRÊN NỀN TẢNG TƯ DUY MỚI
Thứ nhất, không theo con đường cũ của những bậc tiền bối.
Trước sự thất bại của các phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược (từ năm 1958 đến những thập niên đầu thế kỷ XX), nhiều người Việt Nam trăn trở tìm chọn, thử nghiệm con đường giành độc lập cho dân tộc và một số người đi ra nước ngoài mong tìm sự giúp đỡ của chính phủ các nước cho sự nghiệp chống giặc ngoại xâm. Sự khủng hoảng về con đường cứu nước và sự thất bại của các phong trào đấu tranh lúc này đã phản ánh sự bất lực của những “kịch bản” cứu nước theo con đường “cải lương”, “bạo động”, “cầu viện” ngoại bang.
Trong bối cảnh đó, nhận thức được yêu cầu lịch sử, người thanh niên Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước. Từ kết quả nghiên cứu về Hồ Chí Minh những năm qua cho thấy, ngay từ lúc rời Tổ quốc ra đi, nền tảng tư duy chính trị của Nguyễn Tất Thành khác cơ bản với những người yêu nước đương thời.
Một trong những biểu hiện tư duy mới là “trong lúc những thanh niên Việt Nam cùng lứa tuổi say sưa với phong trào Đông Du sang Nhật Bản thì Hồ Chủ tịch đã khước từ sự lựa chọn của Phan Bội Châu đối với mình và rời Tổ quốc ra đi về phía Tây”; nhận thức của Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc về thế giới và đối tượng của cách mạng Việt Nam cũng trên lập trường và quan điểm mới so với các nhà yêu nước khác. Người không ảo tư tưởng trông chờ sự giúp đỡ từ các nước đế quốc thực dân. Trong một bức thư gửi những người bạn cùng làm việc trong toà báo Người cùng khổ, Nguyễn Ái Quốc viết: “Chúng ta cùng chịu chung một nỗi đau khổ: sự bạo ngược của chế độ thực dân. Chúng ta đấu tranh vì một lý tưởng chung: giải phóng đồng bào chúng ta và giành độc lập cho Tổ quốc chúng ta”.
Dù rất khâm phục tinh thần yêu nước của các bậc tiền bối, nhưng Nguyễn Tất Thành đã nhận ra những hạn chế của họ trong việc xác định nhiệm vụ lịch sử, mục tiêu, đối tượng cách mạng; nhận ra những hạn chế về phương thức, phương pháp đấu tranh, về nhận thức “bạn - thù” của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ ở Việt Nam. Do đó, Nguyễn Tất Thành đến nước Pháp không phải để cầu viện hay cầu học, mà “xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”. Một sự khác biệt lớn giữa Nguyễn Ái Quốc với các nhà yêu nước lúc đó là xác định phương pháp cách mạng không phải là “bạo động” hay “cải lương” mà “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”. Như vậy, trên nền tảng tư duy mới, Nguyễn Ái Quốc đã xác định phương hướng hành động và phương pháp hành động cách mạng phù hợp với yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Như vậy, “Khi còn ở trong nước, Nguyễn Tất Thành tuy chưa nhận thức được đặc điểm của thời đại, nhưng từ thực tế lịch sử, Anh đã thấy rõ con đường của các bậc cha anh là cũ kỹ, không đem lại kết quả, Anh phải đi tìm một con đường mới”.
Thứ hai, cứu nước trên nền tảng tư duy chính trị thực tiễn.
Tìm đến văn minh Phương Tây (trong lúc chủ trương “Hướng Đông” đang rất phổ biến) là lựa chọn có tính bước ngoặt thể hiện “sự nhạy cảm chính trị” đặc biệt. Nguyễn Tất Thành kể lại “Vào trạc tuổi 13 lần đầu tiên tôi được nghe những từ ngữ tiếng Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái - đối với chúng tôi lúc ấy, mọi người da trắng được coi là người Pháp - thế là tôi muốn làm quen với văn minh Pháp”.
Nguyễn Tất Thành đến Pháp là để tìm hiểu nước Pháp, để từ đó lý giải về sự xâm lược của thực dân Pháp ở Việt Nam. Điều này phản ánh tư duy thực tiễn của nhà cách mạng trẻ tuổi: Muốn tìm hiểu tận gốc kẻ thù đang áp bức nô dịch đất nước mình, để từ đó có phương pháp và vũ khí thích hợp đánh đuổi chúng.
Khi bàn về con đường cứu nước của Phan Bội Châu, có ý kiến cho rằng, mặc dù Cụ đã nhìn thấy “muốn cứu nước phải có lực lượng, phải xây dựng sự đồng tâm hiệp lực của đồng bào cả nước. Cụ ra sức thức tỉnh mọi người để xây dựng khối đoàn kết dân tộc và cũng thấy rõ năm, mười nghìn tên thực dân không thể nào đương đầu lâu dài với cả một dân tộc đồng tâm nhất trí. Nhưng Cụ không thể nào xốc cả một dân tộc đứng dậy được... Phan Bội Châu cũng đã thấy được tầm quan trọng của sự viện trợ quốc tế, nhưng nếu có thoát khỏi quan niệm đồng văn đồng chủng hoặc đồng bệnh tương liên thì Cụ cũng chưa thể nhìn thấy đâu là lực lượng có thể tranh thủ được. Cụ mong lợi dụng sự mâu thuẫn giữa bọn đế quốc, nhưng chính Cụ và tổ chức yêu nước của Cụ đã bị sự câu kết giữa chúng làm cho khốn quẫn”.
Thực tế cho thấy, tư tưởng chính trị của Nguyễn Tất Thành từ lúc còn trẻ và xuyên suốt hành trình tìm đường giải phóng dân tộc, không phải là sự tiếp tục - tiếp nối tư duy chính trị đương thời để giải quyết vấn đề đặt ra từ những “thất bại” của các nhà yêu nước tiền bối, mà là một hình thái tư tưởng chính trị mới dựa trên nền tảng tư duy chính trị có tính thực tiễn cao. Từ đó hình thành nhiều quan điểm chính trị khác những nhà cách mạng thế hệ trước như: yêu nước gắn liền với thương dân - “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu”; học hỏi các nền văn minh để chống lại hành động xâm lược của các nước văn minh; đánh đuổi ngoại xâm, giải phóng dân tộc gắn liền với xây dựng một xã hội mới, một nhà nước mới tiến bộ và tốt đẹp hơn... Tư duy chính trị mới của Nguyễn Tất Thành là nền tảng, lập trường chính trị để Người thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử của mình và trở thành Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam, “để lại một dấu ấn trong quá trình phát triển của nhân loại và trong lịch sử của đất nước” .
ĐỔI MỚI CĂN BẢN QUAN ĐIỂM CHÍNH TRỊ TRYỀN THỐNG
Từ bỏ quan điểm “Trung Quân, Ái Quốc”, xác lập quan điểm “Trung với Nước, Hiếu với Dân” - Yêu nước gắn liền với thương dân.
Những người Việt Nam mang chí hướng giải phóng dân tộc lúc bấy giờ đều có một điểm chung là lòng yêu nước sâu sắc, nhưng ở Nguyễn Tất Thành tình cảm yêu nước gắn liền với lòng thương yêu nhân dân. Vì vậy, mục tiêu nhất quán, xuyên suốt của Nguyễn Tất Thành là tìm con đường giành độc lập cho Tổ quốc và hạnh phúc cho nhân dân - Độc lập dân tộc gắn với hạnh phúc của nhân dân là tiêu chí cơ bản để Nguyễn Tất Thành lựa chọn con đường cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã đặt nền móng đổi mới tư tưởng chính trị Việt Nam truyền thống - thay đổi nền tảng chính trị phong kiến: “Trung Quân, Ái Quốc” bằng quan điểm chính trị mới “Trung với Nước, Hiếu với Dân” (theo GS. TS. Ahn Kyong Hwan, Trường Đại học Chosun, Hàn Quốc: “tinh thần yêu nước, thương dân, yêu dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một nhân vật vĩ đại nhất xứng đáng là tấm gương cho tất cả các nhà lãnh đạo chính trị trên thế giới”; thay đổi quan điểm “Hướng Đông” với lý do “Đồng văn Đồng chủng” bằng tư duy chính trị thực tế, hướng tới tư tưởng chính trị dân chủ hiện đại, gắn chính trị với thực tiễn kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước và xu thế quốc tế với những giá trị cốt lõi đảm bảo cho công cuộc giải phóng dân tộc thành công, mở đường cho xây dựng một chế độ xã hội mới ở Việt Nam.
Thực tế lịch sử cho thấy những quan điểm chính trị truyền thống của các sĩ phu phong kiến trong phong trào Cần Vương, hoặc tư tưởng lập hiến, tư tưởng dân chủ tư sản của Phan Bội Châu, hay tư tưởng cải lương của Phan Chu Trinh... đã hạn chế nhận thức của nhiều nhà yêu nước về nhiệm vụ lịch sử của đất nước đặt ra, hạn chế về tầm nhìn chính trị của các thủ lĩnh lãnh đạo phong đấu tranh giải phóng dân tộc ở thời kỳ này. Vì vậy những quan điểm chính trị truyền thống lúc đó đã không còn thuyết phục đối với Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh.
Xác lập tư tưởng chính trị giải phóng dân tộc trên nền tảng thực tiễn Việt Nam.
Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam được xác lập trên nền tảng thực tiễn, với một hệ thống lý luận hoàn bị, từ tính chất dân tộc dân chủ của cuộc cách mạng đến phương hướng chiến lược của cách mạng; nhiệm vụ của cách mạng (về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội); lực lượng làm cách mạng; lãnh đạo cách mạng; phương pháp cách mạng; quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới, và tiếp đến là mô hình phát triển xã hội tổng thể của Việt Nam sau khi đánh đuổi được quân xâm lược.
Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh phản ánh sát thực đặc điểm lịch sử xã hội Việt Nam; phản ánh sức mạnh to lớn từ những truyền thống tốt đẹp của nhân dân Việt Nam như: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin và chế độ cộng sản có thể áp dụng vào cuộc cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa, nhưng đồng thời cũng chỉ rõ “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được... Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông”.
Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Nhưng nhân dân phải được giác ngộ, phải được tổ chức và được lãnh đạo bằng một đảng tiên phong với đường lối đúng đắn thì mới trở thành lực lượng có sức mạnh to lớn. Muốn cách mạng thắng lợi “Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”; để xây dựng Đảng Cộng sản, trước hết phải giải quyết tốt vấn đề nhận thức tư tưởng, chính trị và phương pháp tổ chức cho những người yêu nước; phải giác ngộ chủ nghĩa yêu nước truyền thống, chủ nghĩa dân tộc Việt Nam theo lập trường cách mạng vô sản.
Trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, vấn đề giai cấp, dân tộc và lập trường giai cấp, dân tộc được xác định rõ ràng, sát với thực tiễn Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là, trong xã hội có giai cấp, mỗi người đều đứng trên lập trường một giai cấp nhất định. Người cách mạng phải đứng trên lập trường của giai cấp công nhân. Theo quan điểm của Hồ chí Minh, giai cấp - dân tộc là một thể thống nhất biện chứng, không có giai cấp nào nằm ngoài dân tộc. Vì vậy, khi xem xét, đánh giá ý thức giai cấp của các tầng lớp xã hội và của cá nhân phải đặt trong mối quan hệ với ý thức dân tộc của các tầng lớp và cá nhân ấy. Do đó đòi hỏi nhận thức về vấn đề giai cấp, đấu tranh giai cấp phải đúng đắn. Hồ Chí Minh khẳng định cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam không diễn ra giống như ở phương Tây.
Về xác định lực lượng cách mạng, tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh phân biệt rõ các thang bậc giai cấp, tầng lớp xã hội trên cơ sở lợi ích và thái độ chính trị của giai cấp, tầng lớp xã hội trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Từ đó, hình thành quan điểm giai cấp đúng đắn, tạo cơ sở xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tập trung mọi lực lượng có thể để đánh bại quân xâm lược.
Vấn đề chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng; vấn đề nhà nước có ý nghĩa quan trọng đặc biệt về phương diện lý luận cũng như về phương diện thực tiễn của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước ở Việt Nam đầu thế kỷ XX bao hàm cả sự khủng hoảng quan điểm về nhà nước và thiết chế nhà nước.
Từ cuối thập niên 20 của thế kỷ trước, Nguyễn Ái Quốc đã thể hiện lập trường chính trị về kiểu cách mạng và kiểu nhà nước, về thiết chế chính trị và thể chế dân chủ. Năm 1919, thay mặt nhóm những người yêu nước An Nam tại Pháp, Người gửi đến Hội nghị Vécxây bản Yêu sách của nhân dân An Nam, bao gồm 8 điểm. Trong đó, ngoài những điểm liên quan đến quyền dân tộc tự quyết và quyền con người, Nguyễn Ái Quốc đã đề cập đến vấn đề pháp quyền và đòi hỏi phải “Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương... Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”.
Trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, sau khi đánh đổ thực dân Pháp và phong kiến, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, sẽ thành lập một nước Việt Nam dân chủ mới theo tinh thần tân dân chủ. Chính quyền cách mạng của nước dân chủ mới ấy không phải thuộc quyền riêng của một giai cấp nào mà là chung của toàn thể dân tộc, chỉ trừ bọn tay sai đế quốc và những bọn phản quốc... còn ai là người dân sống trên dải đất Việt Nam đều được một phần tham gia giữ chính quyền, có một phần nhiệm vụ giữ và bảo vệ chính quyền ấy... không nên nói công nông liên hiệp và lập chính quyền Xôviết mà phải nói toàn thể nhân dân liên hợp và lập chính phủ dân chủ cộng hoà; quan điểm đó tiếp tục được thể hiện trong Thư gửi đồng bào toàn quốc (1944): “Chúng ta trước phải có một cái cơ cấu đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn thể quốc dân ta. Mà cơ cấu ấy thì phải do một cuộc toàn quốc đại biểu Đại hội gồm tất cả các đảng phái cách mệnh và các đoàn thể ái quốc trong nước bầu cử ra. Một cơ cấu như thế mới đủ lực lượng và oai tín, trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu bang”.
Hồ Chí Minh đã thể hiện sự sáng tạo không chỉ trong việc quán triệt tư tưởng về nhà nước kiểu mới, mà còn thực thi kịp thời quan điểm đó trong tiến trình giải phóng dân tộc, tạo nền tảng cơ bản huy động ở mức cao nhất sức mạnh toàn dân để kháng chiến và kiến quốc thắng lợi.
THÀNH CÔNG CỦA NHÀ CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH
Thứ nhất, tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân tộc đã đáp ứng hai nhiệm vụ lịch sử đặt ra: 1) đánh đuổi thực dân xâm lược, giành độc lập cho dân tộc; 2) xoá bỏ chế độ phong kiến, giành lại dân chủ cho nhân dân. Chính trị Hồ Chí Minh đã giải quyết thành công cuộc khủng hoảng về con đường cứu nước, cứu dân đặt ra từ nửa cuối thế kỷ XVII và tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh trở thành giá trị cốt lõi của đời sống chính trị Việt Nam, trở thành văn hóa chính trị Việt Nam thời kỳ hiện đại.
Thứ hai, Hồ Chí Minh đã xác lập nền tảng chính trị cho sự đoàn kết xã hội Việt Nam thực hiện thắng lợi sự nghiệp “đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm… đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa”, thiết lập một chế độ chính trị hiện đại - nền Cộng hòa Dân chủ Việt Nam của dân, do dân, vì dân.
Thứ ba, chính trị Hồ Chí Minh là nền tảng lý luận xây dựng Nhà nước Việt Nam mới vận hành theo phương châm “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh… phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy”.
Thứ tư, tư tưởng chính trị - pháp lý Hồ Chí Minh là nền tảng lý luận Lập Hiến của nước Việt Nam mới, định hướng cho xây dựng các bản Hiến pháp Việt Nam sau này - đảm bảo quyền tự do dân chủ của nhân dân Việt Nam; tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân với một chính thể dân chủ rộng rãi, một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân bằng sức mạnh của Hiến pháp.
Nhìn tổng quát, thành tựu vĩ đại của nhà chính trị Hồ Chí Minh là lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực hiện thắng lợi việc xóa bỏ sự nô dịch của ngoại bang; đánh đổ chế độ phong kiến phi dân chủ; lập nên chế độ dân chủ cộng hòa, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu hướng tới. Sự nghiệp chính trị của Hồ Chí Minh đã tạo những “dấu ấn” phát triển trong tiến trình vận động của Việt Nam và thế giới. Do đó, Hồ Chí Minh nhận được sự tôn vinh nhất quán, bền vững không chỉ của người Việt Nam, mà cả một bộ phận rất lớn nhân dân thế giới. Vì vậy, nhiệm vụ khoa học đặt ra là phải tiếp tục nghiên sáng tỏ hệ thống những di sản và những “bí quyêt” dẫn đến thành công của nhà chính trị Hồ Chí Minh./.
PGS. TS. ĐINH XUÂN LÝ
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Đại học Quốc gia Hà Nội
Đường link: https://www.tuyengiao.vn/theo-guong-bac/bi-quyet-thanh-cong-cua-nha-chinh-tri-ho-chi-minh-145948
III. THEO DÒNG LỊCH SỬ
- Ngày 2/9: Kỷ niệm 78 năm Ngày Quốc khánh nước CHXHCN Việt Nam (2/9/1945-2/9/2023)
- Ngày 12/9: Kỷ niệm 93 năm Ngày Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (12/9/1930-12/9/2023)
- Ngày 20/9: Kỷ niệm 45 năm Ngày Việt Nam trở thành thành viên Liên hợp quốc (20/9/1977-20/9/2023)
- Ngày 23/9: Kỷ niệm 78 năm Ngày Nam bộ kháng chiến (23/9/1945-23/9/2023)
- Ngày 27/9: Kỷ niệm 83 năm Ngày Khởi nghĩa Bắc Sơn (27/9/1940-27/9/2023)
* TUYÊN TRUYỀN NGÀY QUỐC KHÁNH NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM (2/9/1945-2/9/2023)
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, lịch sử do chính Người chuẩn bị, trịnh trọng tuyên bố trước toàn thế giới về sự ra đời của một Nhà nước mới: Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Khoảnh khắc lịch sử, khi ngày Tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945 được Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ vĩ đại của Dân tộc Việt Nam công bố. Từ đây khởi đầu cho một giai đoạn mới, một hành trình vĩ đại của Dân tộc Việt Nam. Cho tới tận hôm nay và mãi mãi sau này, ngày quốc khánh nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam 2/9 vẫn mang đậm những giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại sáng chói của cả Dân tộc Việt Nam.
Hơn 2/3 thế kỷ đã trôi qua, nhìn lại cuộc hành trình từ ngày 2/9/1945 đến nay, chúng ta thấy tầm nhìn chiến lược và tư tưởng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện rõ nét trong Tuyên ngôn Độc lập. Đó không chỉ là một bản tuyên bố thể hiện quyết tâm của một Dân tộc, mà còn là một kiệt tác văn hóa, một tài liệu pháp lý quan trọng mang giá trị vượt thời gian.
Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 đặt nền móng cho việc thiết lập một Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Mục tiêu Độc lập - Tự do - Hạnh phúc không chỉ là mong muốn của một dân tộc mà còn là khát vọng của cả nhân loại. Tuyên ngôn đã khơi nguồn sáng tạo, soi sáng con đường cách mạng Việt Nam trong việc xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nó cũng đóng góp cho sự nghiệp giải phóng của nhân loại, khởi đầu kỷ nguyên độc lập, tự do cho các dân tộc thuộc địa bị áp bức trên toàn thế giới.
Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là một bài diễn thuyết lịch sử, mà còn là một văn bản pháp lý quan trọng nhất trong lịch sử nước ta. Với lập luận chặt chẽ, giọng văn hùng hồn, đã khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia của Dân tộc Việt Nam trước toàn thế giới. Tuyên ngôn Độc lập mở ra một thời kỳ mới cho Dân tộc Việt Nam trên con đường phát triển.
Cuộc cách mạng mà Dân tộc Việt Nam đã giành được vào Tháng Tám năm 1945 không chỉ là bước đi tiếp trong sự phát triển của nhân loại, mà còn là cột mốc quan trọng trong lịch sử giải phóng con người thuộc các dân tộc bị áp bức. Đó là ngọn cờ đầu tiên của cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa khỏi ách đô hộ, thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ và mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh có quan điểm sâu xa hơn trong tư tưởng về quyền con người. Sự khẳng định Mọi người đều sinh ra bình đẳng, không chỉ áp dụng cho một dân tộc mà còn cho tất cả các dân tộc trên thế giới. Điều này thể hiện tầm nhìn lớn lao, tư duy vượt thời đại lúc bấy giờ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều này đã tạo nên một nội dung rất căn bản, có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với Dân tộc Việt Nam mà còn đối với toàn cầu.
Bước vào thời kỳ đổi mới, với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, một lần nữa Nhân dân Việt Nam lại bước vào cuộc chiến đấu đầy gian khó để xóa đói, giảm nghèo, lạc hậu và đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đời sống Nhân dân không ngừng được cải thiện; Chính trị - xã hội ổn định; Quốc phòng, an ninh được giữ vững; An sinh xã hội được bảo đảm.
Từ một đất nước không có tên trên bản đồ thế giới, đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 192 quốc gia; đã vươn lên, trở thành một nền kinh tế năng động hàng đầu ở châu Á-Thái Bình Dương, một mắt xích quan trọng trong nhiều liên kết kinh tế, hiệp định thương mại tự do, chuỗi sản xuất khu vực và toàn cầu. Việt Nam là đất nước của hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, là điểm đến tươi đẹp, an toàn, thân thiện, giàu lòng mến khách.
Những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 vẫn luôn rực sáng và trở thành nguồn cảm hứng mạnh mẽ của toàn Dân tộc Việt Nam. Nhờ vào những nguyên tắc và tầm nhìn đó, Dân tộc Việt Nam đã vượt qua biết bao gian khổ, thách thức để xây dựng và bảo vệ độc lập, tự do, và hạnh phúc. Các thành tựu to lớn của cách mạng Việt Nam trong suốt những năm qua là minh chứng sống cho sự tương thân, tương ái và lòng dũng cảm của mỗi người con Việt Nam.
Hiện nay, trong bối cảnh chung của thế giới và khu vực, Dân tộc Việt Nam vẫn tiếp tục con đường đổi mới toàn diện và phát triển bền vững. Tương lai sẽ nhiều cơ hội và thách thức, để tận dụng và phát huy tốt nhất những cơ hội đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần đoàn kết một lòng, với quyết tâm cao, thể hiện sức mạnh của sự đoàn kết toàn dân tộc. Mỗi công dân Việt Nam có trách nhiệm duy trì tinh thần đổi mới, đồng bộ hóa trong công cuộc phát triển, để đưa đất nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại, nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân.
78 năm đã trôi qua, nhưng thông điệp của Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 vẫn còn nguyên giá trị và ý nghĩa lịch sử. Đó là tình yêu quê hương, độc lập, tự do và lòng dũng cảm của Nhân dân Việt Nam. Trong hành trình phấn đấu, với sự đoàn kết và quyết tâm cao, chúng ta vượt qua mọi khó khăn, thực hiện tốt hơn nữa những mục tiêu cao cả mà Tuyên ngôn Độc lập đã đề ra. Việt Nam có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay, đồng thời đó là nền tảng vững chắc để chúng ta phấn đấu thời gian tới.
Đường link: https://tinhdoanqnam.vn/news/kien-thuc-ky-nang/ngay-quoc-khanh-2-9-la-niem-tu-hao-cua-ca-dan-toc-viet-nam-5092.html
IV. VĂN BẢN, CHÍNH SÁCH MỚI
1. Nâng mức chuẩn trợ cấp ưu đãi người có công với cách mạng
Có hiệu lực từ ngày 5/9/2023, Nghị định số 55/2023/NĐ-CP ngày 21/7/2023 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 75/2021/NĐ-CP ngày 24/7/2021 của Chính phủ quy định mức hưởng trợ cấp, phụ cấp và các chế độ ưu đãi người có công với cách mạng.
Theo đó, mức chuẩn trợ cấp ưu đãi người có công với cách mạng tăng từ 1.624.000 đồng lên 2.055.000 đồng.
Nghị định số 55/2023/NĐ-CP cũng sửa đổi, bổ sung mức hưởng trợ cấp, phụ cấp ưu đãi hằng tháng đối với người có công với cách mạng trợ cấp, phụ cấp ưu đãi hằng tháng đối với người có công với cách mạng và thân nhân của người có công với cách mạng; mức hưởng trợ cấp ưu đãi hằng tháng đối với thương binh, người hưởng chính sách như thương binh; mức hưởng trợ cấp ưu đãi hằng tháng đối với thương binh loại B; mức hưởng trợ cấp ưu đãi một lần đối với người có công với cách mạng và thân nhân người có công với cách mạng.
2. Bổ sung quy định đánh giá, xếp loại chất lượng với cán bộ, công chức, viên chức bị xử lý kỷ luật
Có hiệu lực từ 15/9/2023, Nghị định số 48/2023/NĐ-CP ngày 17/7/2023 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 90/2020/NĐ-CP ngày 13/8/2020 về đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức.
Trong đó, quy định về nguyên tắc đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức, ngoài 4 nguyên tắc theo quy định tại Nghị định số 90/2020/NĐ-CP, Nghị định 48/2023/NĐ-CP đã bổ sung thêm 2 nguyên tắc gồm:
5- Cán bộ, công chức, viên chức bị xử lý kỷ luật đảng hoặc kỷ luật hành chính thì đánh giá, xếp loại chất lượng như sau:
a) Cán bộ, công chức, viên chức bị xử lý kỷ luật đảng hoặc kỷ luật hành chính trong năm đánh giá thì xếp loại chất lượng ở mức không hoàn thành nhiệm vụ, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản này.
b) Trường hợp hành vi vi phạm chưa có quyết định xử lý kỷ luật của cấp có thẩm quyền nhưng đã được dùng làm căn cứ để đánh giá, xếp loại chất lượng ở mức không hoàn thành nhiệm vụ trong năm đánh giá thì quyết định xử lý kỷ luật ban hành sau năm đánh giá đối với hành vi vi phạm đó (nếu có) không được tính để đánh giá, xếp loại chất lượng ở năm có quyết định xử lý kỷ luật.
c) Trường hợp cán bộ, công chức, viên chức là đảng viên, đã bị xử lý kỷ luật đảng và kỷ luật hành chính về cùng một hành vi vi phạm nhưng quyết định kỷ luật đảng và quyết định kỷ luật hành chính không có hiệu lực trong cùng năm đánh giá thì chỉ tính là căn cứ xếp loại chất lượng ở một năm đánh giá.
6- Tỉ lệ cán bộ, công chức, viên chức xếp loại "Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ" trong tổng số cán bộ, công chức, viên chức tại cùng cơ quan, tổ chức đơn vị và đối với từng nhóm đối tượng có nhiệm vụ tương đồng không quá tỉ lệ đảng viên được xếp loại "Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ" theo quy định của Đảng. Trường hợp cơ quan, tổ chức, đơn vị có thành tích xuất sắc, nổi trội, hoàn thành vượt kế hoạch các công việc được giao, hoàn thành tốt các công việc đột xuất, có đề xuất hoặc tổ chức thực hiện đổi mới sáng tạo, tạo sự chuyển biến tích cực, mang lại giá trị, hiệu quả thiết thực thì cấp có thẩm quyền quyết định tỉ lệ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phù hợp với thực tế, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cán bộ, công chức, viên chức.
3. Tăng mức trợ cấp hằng tháng đối với cán bộ xã già yếu đã nghỉ việc
Thông tư 11/2023/TT-BNV hướng dẫn điều chỉnh mức trợ cấp hằng tháng cho cán bộ cấp xã già yếu đã nghỉ việc có hiệu lực từ 15/9/2023.
Theo đó, từ 01/7/2023, tăng mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng cho cán bộ xã già yếu như sau:
Trợ cấp hằng tháng = Mức trợ cấp hưởng tháng 6/2023 x 1,125
Sau khi điều chỉnh, nếu mức trợ cấp của cán bộ xã già yếu đã nghỉ việc thấp hơn 03 triệu đồng/tháng thì được điều chỉnh như sau:
- Tăng thêm 300.000 đồng/người/tháng nếu có mức hưởng dưới 2,7 triệu đồng/tháng/người.
- Tăng lên bằng 03 triệu đồng/người/tháng nếu có mức hưởng từ 2,7 - dưới 03 triệu đồng/người/tháng.
Do đó, các đối tượng cụ thể được điều chỉnh mức trợ cấp hằng tháng làm tròn số như sau:
- Nguyên là Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Bí thư, Phó Chủ tịch, Thường trực Đảng ủy, Ủy viên thư ký Ủy ban nhân dân, Thư ký Hội đồng nhân dân xã, Xã đội trưởng, Trưởng công an xã: 03 triệu đồng/tháng/người.
- Các chức danh còn lại: 2,817 triệu đồng/tháng/người.
BIÊN TẬP BAN TỔ CHỨC – KIỂM TRA TỈNH ĐOÀN