Nông Sơn tổ chức sinh hoạt kỷ niệm 70 năm Ngày ký Hiệp định Giơ-ne-vơ
- Thứ năm - 11/07/2024 13:49
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Ngày 10/7/2024, Huyện đoàn - Hội LHTN Việt Nam huyện tổ chức sinh hoạt chuyên đề kỷ niệm 70 năm Ngày ký Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (21/7/1954 - 21/7/2024). Tại chương trinh, cán bộ chủ chốt đoàn hội từ huyện đến cơ sở được xem phim tư liệu về Hiệp định Giơ-ne-vơ, ý nghĩa lịch sử cỉa Hiệp định đối với cách mạng Việt Nam, bài học lịch sử đối với đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Ngày 21-7-1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được ký kết, mở ra một trang mới trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam. Trải qua 70 năm, những bài học từ đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Giơ-ne-vơ vẫn còn nguyên giá trị đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Ý nghĩa và tầm vóc lịch sử của Hiệp định Giơ-ne-vơ
Với những thắng lợi to lớn của quân và dân Việt Nam trên chiến trường, cuối năm 1953, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương đẩy mạnh đấu tranh trên mặt trận đối ngoại nhằm tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới đối với cuộc kháng chiến chống thực dân của nhân dân Việt Nam, phối hợp với cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân năm 1953 - 1954 để đi tới chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và toàn Đông Dương. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư kêu gọi nhân dân Pháp sát cánh cùng nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp vì lợi ích chung của hai nước là độc lập, tự do, dân chủ và hòa bình. Người cũng tán thành Nghị quyết yêu cầu chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương của Hội đồng Hòa bình thế giới (tháng 11-1953). Trả lời phỏng vấn của một nhà báo Thụy Điển vào ngày 26-11-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó”; “Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam”(1).
Đúng một ngày sau chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, ngày 8-5-1954, Hội nghị Giơ-ne-vơ bắt đầu bàn về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương. Trải qua 75 ngày đàm phán căng thẳng và phức tạp với 31 phiên họp các cấp, Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam đã được ký kết vào ngày 21-7-1954. Cùng với bản Tuyên bố về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương, bản Hiệp định đình chiến ở Việt Nam đã khẳng định độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, quy định không đưa quân đội và nhân viên quân sự nước ngoài vào Việt Nam, xác định các giới tuyến quân sự chỉ có tính tạm thời và sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do,...
Ngày 22-7-1954, trong “Lời kêu gọi sau khi Hội nghị Giơ-ne-vơ thành công”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá: “Hội nghị Giơnevơ đã kết thúc. Ngoại giao ta đã thắng lợi to”. Với Hiệp định Sơ bộ năm 1946, Việt Nam mới chỉ được công nhận là một quốc gia tự do nằm trong khối Liên hiệp Pháp, thì với Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ đã được khẳng định trong một điều ước quốc tế. Đây là thắng lợi có ý nghĩa lịch sử to lớn, kết tinh thành quả đấu tranh quật cường và bền bỉ của quân và dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược.
Cùng với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam, chấm dứt hoàn toàn sự đô hộ của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ kéo dài gần 100 năm tại Việt Nam, mở ra cục diện chiến lược mới của cách mạng Việt Nam. Đó là, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc để tiến tới thực hiện trọn vẹn mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.
Về đối ngoại, Hội nghị Giơ-ne-vơ là hội nghị quốc tế đa phương lớn đầu tiên Việt Nam tham dự để đàm phán và ký kết điều ước quốc tế với sự tham gia trực tiếp của các cường quốc. Trong lần tham dự đầu tiên này, Việt Nam không chỉ khẳng định vị thế một quốc gia độc lập, có chủ quyền và yêu chuộng hòa bình, mà còn thể hiện sáng ngời tâm thế, trí tuệ, bản lĩnh và cốt cách của một dân tộc hòa hiếu có bề dày hàng nghìn năm văn hiến với ý chí quật cường bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Bên cạnh đó, thắng lợi của Việt Nam tại Hội nghị Giơ-ne-vơ đã tạo nguồn cảm hứng và cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa trên khắp năm châu vì độc lập, tự do, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới. Từ năm 1954 đến năm 1964, có đến 17/22 thuộc địa của Pháp giành được độc lập; riêng trong năm 1960, có tới 17 nước châu Phi tuyên bố độc lập.
Nhân tố dẫn đến thắng lợi của Việt Nam tại Hội nghị Giơ-ne-vơ
Trước hết, nhân tố quyết định là nhờ đường lối cách mạng đúng đắn, sự lãnh đạo, dẫn dắt tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Trên cơ sở đánh giá chính xác tình hình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương, đường lối và sách lược cách mạng đúng đắn, mở mặt trận ngoại giao chủ động tiến công, phối hợp chặt chẽ và thống nhất với các mặt trận chính trị, quân sự để tạo nên sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thắng lợi tại Hội nghị Giơ-ne-vơ bắt nguồn từ khát vọng hòa bình cháy bỏng, chủ nghĩa yêu nước anh hùng cùng truyền thống văn hóa, trí tuệ và bản lĩnh của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Hiệp định Giơ-ne-vơ là kết tinh thành quả đấu tranh gian khổ và hy sinh to lớn của quân và dân Việt Nam, từ Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947 đến Chiến dịch Biên giới Thu Đông năm 1950 và cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân năm 1953 - 1954 với đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Thắng lợi của Việt Nam tại Hội nghị Giơ-ne-vơ còn nhờ sự đoàn kết, ủng hộ, giúp đỡ quý báu của các nước bạn Lào, Cam-pu-chia, Trung Quốc, Liên Xô cùng các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, trong đó có nhân dân Pháp.
Nhìn lại 70 năm ngày ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ, nhân dân Việt Nam biết ơn vô hạn công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các bậc tiền bối cách mạng cũng như sự hy sinh vô cùng to lớn của đồng bào, chiến sĩ cả nước vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Nhân dân Việt Nam thành kính tri ân các bậc lão thành tham gia đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Giơ-ne-vơ, trong đó có những nhà ngoại giao xuất sắc trong thời đại Hồ Chí Minh, như các đồng chí Phạm Văn Đồng, Tạ Quang Bửu, Hà Văn Lâu và nhiều cán bộ ngoại giao ưu tú khác. Chúng ta trân trọng và ghi nhớ tình đoàn kết, ủng hộ, giúp đỡ quý báu của bạn bè quốc tế dành cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
Những bài học ngoại giao quý báu, còn nguyên giá trị trong bối cảnh hiện nay
Cùng với Hiệp định Sơ bộ năm 1946 và Hiệp định Pa-ri năm 1973, Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 là một mốc son trong lịch sử của ngoại giao cách mạng Việt Nam, mang đậm dấu ấn tư tưởng, phong cách và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh. Quá trình đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Giơ-ne-vơ chứa đựng nhiều bài học sâu sắc, thể hiện bản sắc độc đáo của trường phái đối ngoại và ngoại giao Việt Nam, được kế thừa, vận dụng sáng tạo và phát triển trong đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Pa-ri năm 1973 cũng như trong xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trước hết, đó là bài học về kiên định độc lập, tự chủ trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc. Đây vừa là bài học, vừa là nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phối hợp chặt chẽ với các mặt trận chính trị và quân sự, mặt trận ngoại giao trên cơ sở giữ vững nguyên tắc độc lập, tự chủ, luôn giữ thế chủ động tiến công trong các cuộc đấu trí cam go trên bàn đàm phán, góp phần tạo nên những thắng lợi to lớn làm rạng rỡ lịch sử dân tộc, từ đàm phán bảo vệ nền độc lập sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đến đàm phán, ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 và đàm phán, ký kết Hiệp định Pa-ri năm 1973, tạo tiền đề để nhân dân Việt Nam thực hiện khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và phát triển phồn vinh.
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, đến nay Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia; có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 nước, trong đó có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện và đối tác chiến lược với tất cả các nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng là thành viên tích cực, có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế lớn, như Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM)... Nền tảng quan hệ và tin cậy chính trị với nhiều nước được củng cố vững chắc, khuôn khổ quan hệ với nhiều đối tác quan trọng được nâng lên tầm cao mới, ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất, đan xen và gắn kết lợi ích ngày càng chặt chẽ. Vị thế, uy tín và tiếng nói của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Có thể khẳng định, chưa bao giờ Việt Nam có cục diện đối ngoại rộng mở, thuận lợi và vững chắc như ngày nay.
Thứ hai, bài học về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại dựa trên nền tảng gắn kết đại đoàn kết toàn dân tộc với đoàn kết quốc tế. Chính sách nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam là đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế phải rộng rãi, lâu dài, chặt chẽ và ngày càng được củng cố vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ và phát triển đất nước. Trong suốt sự nghiệp giải phóng dân tộc nói chung và đàm phán, ký kết, thực thi Hiệp định Giơ-ne-vơ nói riêng, bên cạnh phát huy sức mạnh toàn dân tộc và giương cao ngọn cờ chính nghĩa, Việt Nam không ngừng mở rộng đoàn kết quốc tế trên tinh thần quốc tế trong sáng, từ đó tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Vận dụng sáng tạo bài học này trong công cuộc đổi mới hiện nay, Việt Nam đã triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng đi đôi với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Nhờ đó, đã khơi dậy và phát huy nhiều nguồn lực trong nước kết hợp với các nguồn lực bên ngoài, nhất là về thị trường, vốn đầu tư, tri thức và khoa học - công nghệ, góp phần quan trọng tăng cường tiềm lực, vị thế và sức mạnh tổng hợp quốc gia. Đến nay, Việt Nam đã nằm trong nhóm 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới và 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài, có quan hệ đối ngoại rộng mở, ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả.
Thứ ba, bài học về kiên định mục tiêu, nguyên tắc, song cơ động, linh hoạt trong sách lược theo phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Đây vừa là bài học, vừa là phương pháp và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh, thể hiện bản sắc độc đáo của nền ngoại giao Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”(2); cái gốc “bất biến” trong đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Giơ-ne-vơ là Việt Nam độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; “vạn biến” là trong lúc chưa thể thực hiện trọn vẹn mục tiêu chiến lược, thì linh hoạt, biến hóa trong sách lược để rồi kiên quyết, kiên trì từng bước đạt tới mục tiêu độc lập dân tộc và thống nhất đất nước.
Bài học này từ Hội nghị Giơ-ne-vơ tiếp tục được kế thừa, vận dụng sáng tạo và phát triển để xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”. Trước những biến động phức tạp trên thế giới hiện nay, Việt Nam đã xử lý đúng đắn các mối quan hệ đối ngoại trên cơ sở kiên định nguyên tắc, linh hoạt trong sách lược và sáng tạo trong ứng xử. Nhờ đó, Việt Nam vừa giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, vừa thúc đẩy hợp tác để tranh thủ các yếu tố quốc tế thuận lợi và nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước.
Thứ tư, bài học về phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại, sử dụng đối thoại và đàm phán hòa bình để giải quyết bất đồng, xung đột trong quan hệ quốc tế. Trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chủ trương giải quyết chiến tranh bằng thương lượng hòa bình trong điều kiện có thể. Cùng với việc mở cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân năm 1953 - 1954, Đảng đã quyết định dùng đàm phán hòa bình làm phương thức kết thúc chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương. Chủ trương đúng đắn này xuất phát từ tư tưởng hòa hiếu và nhân văn đã thấm sâu vào văn hóa dân tộc Việt Nam “dập tắt muôn đời lửa chiến tranh; mở nền muôn thuở thái bình”.
Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trong công cuộc đổi mới, Việt Nam nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Trên các bình diện song phương và đa phương, Việt Nam luôn kiên trì thúc đẩy đồng thuận, đối thoại và hợp tác, giải quyết bất đồng bằng các biện pháp hòa bình. Trước những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế, Việt Nam nêu cao tinh thần hòa hiếu, xử lý đúng đắn và hài hòa các mối quan hệ đối ngoại; chủ động, tích cực thúc đẩy đối thoại, đàm phán và hợp tác giải quyết các vấn đề phát sinh trong quan hệ với các đối tác trên cơ sở bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc và tôn trọng luật pháp quốc tế. Trong các vấn đề quốc tế và khu vực, Việt Nam luôn thúc đẩy cách tiếp cận đa phương và chủ nghĩa nhân văn, đề cao các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, đóng góp tích cực, có trách nhiệm vào duy trì hòa bình, ổn định và an ninh quốc tế, như cử hàng trăm lượt cán bộ, chiến sĩ tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc ở châu Phi, tích cực tham gia hòa giải, hỗ trợ nhân đạo và tìm giải pháp cho các xung đột trên thế giới,...
Thứ năm, bài học về đặc biệt coi trọng nghiên cứu, đánh giá và dự báo tình hình để có những quyết sách đối ngoại đúng đắn. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo đối ngoại qua các thời kỳ, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đặc biệt coi trọng công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, không ngừng đổi mới, phát triển tư duy, nhận thức về đối ngoại. Vận dụng nhuần nhuyễn phương châm “ngũ tri” (biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng và biết biến) trong đánh giá, dự báo tình hình quốc tế và trong nước, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra chủ trương, sách lược phù hợp đối với Hội nghị Giơ-ne-vơ nhằm bảo vệ cao nhất các lợi ích dân tộc cơ bản của Việt Nam trong điều kiện và khả năng của Việt Nam tại thời điểm đó.
Thế giới ngày nay đang trải qua những biến động lớn, xuất hiện nhiều vấn đề chưa từng có tiền lệ, cần nhạy bén đánh giá đúng xu thế phát triển của tình hình, nhận diện chính xác thời cơ và định vị đúng vị thế chiến lược của đất nước. Với thế và lực của Việt Nam chưa bao giờ có được như ngày nay, cần mạnh dạn vượt ra khỏi tư duy lối mòn, dám đổi mới sáng tạo, tìm cách làm mới vì lợi ích quốc gia - dân tộc; trên cơ sở đó, không ngừng hoàn thiện đường lối đối ngoại đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
Bên cạnh những bài học trên, nhiều bài học quý báu từ Hiệp định Giơ-ne-vơ cần tiếp tục được nghiên cứu, đánh giá và tổng kết, như bài học về sự lãnh đạo thống nhất, tuyệt đối của Đảng đối với mặt trận đối ngoại và ngoại giao; về xây dựng và phát triển lực lượng ngoại giao, trong đó xây dựng cán bộ ngoại giao là then chốt; về xử lý đúng đắn quan hệ với các nước láng giềng và các nước lớn, giữa lợi ích quốc gia - dân tộc và lợi ích chung của cộng đồng quốc tế, giữa “thế” và “lực” trong quan hệ quốc tế, giữa chiến lược và sách lược, giữa chính trị - quân sự và ngoại giao,...
Kỷ niệm 70 năm Ngày ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ là dịp ôn lại và làm sâu sắc hơn tầm vóc, ý nghĩa của một mốc son lịch sử hào hùng của dân tộc và nền ngoại giao Việt Nam, khơi dậy mạnh mẽ lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc và ý chí, nỗ lực vươn lên của thế hệ hôm nay. Phát huy truyền thống vẻ vang của ngoại giao Việt Nam và tinh thần Hiệp định Giơ-ne-vơ, toàn ngành ngoại giao cùng các ngành, các cấp dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo tư tưởng, phong cách và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh, nỗ lực xây dựng ngành ngoại giao vững mạnh toàn diện, hiện đại, đóng góp xứng đáng vào thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
Ngày 21-7-1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được ký kết, mở ra một trang mới trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam. Trải qua 70 năm, những bài học từ đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Giơ-ne-vơ vẫn còn nguyên giá trị đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Ý nghĩa và tầm vóc lịch sử của Hiệp định Giơ-ne-vơ
Với những thắng lợi to lớn của quân và dân Việt Nam trên chiến trường, cuối năm 1953, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương đẩy mạnh đấu tranh trên mặt trận đối ngoại nhằm tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới đối với cuộc kháng chiến chống thực dân của nhân dân Việt Nam, phối hợp với cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân năm 1953 - 1954 để đi tới chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và toàn Đông Dương. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư kêu gọi nhân dân Pháp sát cánh cùng nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp vì lợi ích chung của hai nước là độc lập, tự do, dân chủ và hòa bình. Người cũng tán thành Nghị quyết yêu cầu chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương của Hội đồng Hòa bình thế giới (tháng 11-1953). Trả lời phỏng vấn của một nhà báo Thụy Điển vào ngày 26-11-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó”; “Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam”(1).
Đúng một ngày sau chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, ngày 8-5-1954, Hội nghị Giơ-ne-vơ bắt đầu bàn về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương. Trải qua 75 ngày đàm phán căng thẳng và phức tạp với 31 phiên họp các cấp, Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam đã được ký kết vào ngày 21-7-1954. Cùng với bản Tuyên bố về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương, bản Hiệp định đình chiến ở Việt Nam đã khẳng định độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, quy định không đưa quân đội và nhân viên quân sự nước ngoài vào Việt Nam, xác định các giới tuyến quân sự chỉ có tính tạm thời và sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do,...
Ngày 22-7-1954, trong “Lời kêu gọi sau khi Hội nghị Giơ-ne-vơ thành công”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá: “Hội nghị Giơnevơ đã kết thúc. Ngoại giao ta đã thắng lợi to”. Với Hiệp định Sơ bộ năm 1946, Việt Nam mới chỉ được công nhận là một quốc gia tự do nằm trong khối Liên hiệp Pháp, thì với Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ đã được khẳng định trong một điều ước quốc tế. Đây là thắng lợi có ý nghĩa lịch sử to lớn, kết tinh thành quả đấu tranh quật cường và bền bỉ của quân và dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược.
Cùng với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam, chấm dứt hoàn toàn sự đô hộ của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ kéo dài gần 100 năm tại Việt Nam, mở ra cục diện chiến lược mới của cách mạng Việt Nam. Đó là, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc để tiến tới thực hiện trọn vẹn mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.
Về đối ngoại, Hội nghị Giơ-ne-vơ là hội nghị quốc tế đa phương lớn đầu tiên Việt Nam tham dự để đàm phán và ký kết điều ước quốc tế với sự tham gia trực tiếp của các cường quốc. Trong lần tham dự đầu tiên này, Việt Nam không chỉ khẳng định vị thế một quốc gia độc lập, có chủ quyền và yêu chuộng hòa bình, mà còn thể hiện sáng ngời tâm thế, trí tuệ, bản lĩnh và cốt cách của một dân tộc hòa hiếu có bề dày hàng nghìn năm văn hiến với ý chí quật cường bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Bên cạnh đó, thắng lợi của Việt Nam tại Hội nghị Giơ-ne-vơ đã tạo nguồn cảm hứng và cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa trên khắp năm châu vì độc lập, tự do, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới. Từ năm 1954 đến năm 1964, có đến 17/22 thuộc địa của Pháp giành được độc lập; riêng trong năm 1960, có tới 17 nước châu Phi tuyên bố độc lập.
Nhân tố dẫn đến thắng lợi của Việt Nam tại Hội nghị Giơ-ne-vơ
Trước hết, nhân tố quyết định là nhờ đường lối cách mạng đúng đắn, sự lãnh đạo, dẫn dắt tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Trên cơ sở đánh giá chính xác tình hình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương, đường lối và sách lược cách mạng đúng đắn, mở mặt trận ngoại giao chủ động tiến công, phối hợp chặt chẽ và thống nhất với các mặt trận chính trị, quân sự để tạo nên sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thắng lợi tại Hội nghị Giơ-ne-vơ bắt nguồn từ khát vọng hòa bình cháy bỏng, chủ nghĩa yêu nước anh hùng cùng truyền thống văn hóa, trí tuệ và bản lĩnh của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Hiệp định Giơ-ne-vơ là kết tinh thành quả đấu tranh gian khổ và hy sinh to lớn của quân và dân Việt Nam, từ Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947 đến Chiến dịch Biên giới Thu Đông năm 1950 và cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân năm 1953 - 1954 với đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Thắng lợi của Việt Nam tại Hội nghị Giơ-ne-vơ còn nhờ sự đoàn kết, ủng hộ, giúp đỡ quý báu của các nước bạn Lào, Cam-pu-chia, Trung Quốc, Liên Xô cùng các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, trong đó có nhân dân Pháp.
Nhìn lại 70 năm ngày ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ, nhân dân Việt Nam biết ơn vô hạn công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các bậc tiền bối cách mạng cũng như sự hy sinh vô cùng to lớn của đồng bào, chiến sĩ cả nước vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Nhân dân Việt Nam thành kính tri ân các bậc lão thành tham gia đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Giơ-ne-vơ, trong đó có những nhà ngoại giao xuất sắc trong thời đại Hồ Chí Minh, như các đồng chí Phạm Văn Đồng, Tạ Quang Bửu, Hà Văn Lâu và nhiều cán bộ ngoại giao ưu tú khác. Chúng ta trân trọng và ghi nhớ tình đoàn kết, ủng hộ, giúp đỡ quý báu của bạn bè quốc tế dành cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
Những bài học ngoại giao quý báu, còn nguyên giá trị trong bối cảnh hiện nay
Cùng với Hiệp định Sơ bộ năm 1946 và Hiệp định Pa-ri năm 1973, Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 là một mốc son trong lịch sử của ngoại giao cách mạng Việt Nam, mang đậm dấu ấn tư tưởng, phong cách và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh. Quá trình đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Giơ-ne-vơ chứa đựng nhiều bài học sâu sắc, thể hiện bản sắc độc đáo của trường phái đối ngoại và ngoại giao Việt Nam, được kế thừa, vận dụng sáng tạo và phát triển trong đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Pa-ri năm 1973 cũng như trong xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trước hết, đó là bài học về kiên định độc lập, tự chủ trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc. Đây vừa là bài học, vừa là nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phối hợp chặt chẽ với các mặt trận chính trị và quân sự, mặt trận ngoại giao trên cơ sở giữ vững nguyên tắc độc lập, tự chủ, luôn giữ thế chủ động tiến công trong các cuộc đấu trí cam go trên bàn đàm phán, góp phần tạo nên những thắng lợi to lớn làm rạng rỡ lịch sử dân tộc, từ đàm phán bảo vệ nền độc lập sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đến đàm phán, ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 và đàm phán, ký kết Hiệp định Pa-ri năm 1973, tạo tiền đề để nhân dân Việt Nam thực hiện khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và phát triển phồn vinh.
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, đến nay Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia; có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 nước, trong đó có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện và đối tác chiến lược với tất cả các nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng là thành viên tích cực, có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế lớn, như Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM)... Nền tảng quan hệ và tin cậy chính trị với nhiều nước được củng cố vững chắc, khuôn khổ quan hệ với nhiều đối tác quan trọng được nâng lên tầm cao mới, ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất, đan xen và gắn kết lợi ích ngày càng chặt chẽ. Vị thế, uy tín và tiếng nói của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Có thể khẳng định, chưa bao giờ Việt Nam có cục diện đối ngoại rộng mở, thuận lợi và vững chắc như ngày nay.
Thứ hai, bài học về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại dựa trên nền tảng gắn kết đại đoàn kết toàn dân tộc với đoàn kết quốc tế. Chính sách nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam là đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế phải rộng rãi, lâu dài, chặt chẽ và ngày càng được củng cố vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ và phát triển đất nước. Trong suốt sự nghiệp giải phóng dân tộc nói chung và đàm phán, ký kết, thực thi Hiệp định Giơ-ne-vơ nói riêng, bên cạnh phát huy sức mạnh toàn dân tộc và giương cao ngọn cờ chính nghĩa, Việt Nam không ngừng mở rộng đoàn kết quốc tế trên tinh thần quốc tế trong sáng, từ đó tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Vận dụng sáng tạo bài học này trong công cuộc đổi mới hiện nay, Việt Nam đã triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng đi đôi với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Nhờ đó, đã khơi dậy và phát huy nhiều nguồn lực trong nước kết hợp với các nguồn lực bên ngoài, nhất là về thị trường, vốn đầu tư, tri thức và khoa học - công nghệ, góp phần quan trọng tăng cường tiềm lực, vị thế và sức mạnh tổng hợp quốc gia. Đến nay, Việt Nam đã nằm trong nhóm 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới và 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài, có quan hệ đối ngoại rộng mở, ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả.
Thứ ba, bài học về kiên định mục tiêu, nguyên tắc, song cơ động, linh hoạt trong sách lược theo phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Đây vừa là bài học, vừa là phương pháp và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh, thể hiện bản sắc độc đáo của nền ngoại giao Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”(2); cái gốc “bất biến” trong đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Giơ-ne-vơ là Việt Nam độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; “vạn biến” là trong lúc chưa thể thực hiện trọn vẹn mục tiêu chiến lược, thì linh hoạt, biến hóa trong sách lược để rồi kiên quyết, kiên trì từng bước đạt tới mục tiêu độc lập dân tộc và thống nhất đất nước.
Bài học này từ Hội nghị Giơ-ne-vơ tiếp tục được kế thừa, vận dụng sáng tạo và phát triển để xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”. Trước những biến động phức tạp trên thế giới hiện nay, Việt Nam đã xử lý đúng đắn các mối quan hệ đối ngoại trên cơ sở kiên định nguyên tắc, linh hoạt trong sách lược và sáng tạo trong ứng xử. Nhờ đó, Việt Nam vừa giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, vừa thúc đẩy hợp tác để tranh thủ các yếu tố quốc tế thuận lợi và nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước.
Thứ tư, bài học về phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại, sử dụng đối thoại và đàm phán hòa bình để giải quyết bất đồng, xung đột trong quan hệ quốc tế. Trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chủ trương giải quyết chiến tranh bằng thương lượng hòa bình trong điều kiện có thể. Cùng với việc mở cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân năm 1953 - 1954, Đảng đã quyết định dùng đàm phán hòa bình làm phương thức kết thúc chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương. Chủ trương đúng đắn này xuất phát từ tư tưởng hòa hiếu và nhân văn đã thấm sâu vào văn hóa dân tộc Việt Nam “dập tắt muôn đời lửa chiến tranh; mở nền muôn thuở thái bình”.
Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trong công cuộc đổi mới, Việt Nam nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Trên các bình diện song phương và đa phương, Việt Nam luôn kiên trì thúc đẩy đồng thuận, đối thoại và hợp tác, giải quyết bất đồng bằng các biện pháp hòa bình. Trước những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế, Việt Nam nêu cao tinh thần hòa hiếu, xử lý đúng đắn và hài hòa các mối quan hệ đối ngoại; chủ động, tích cực thúc đẩy đối thoại, đàm phán và hợp tác giải quyết các vấn đề phát sinh trong quan hệ với các đối tác trên cơ sở bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc và tôn trọng luật pháp quốc tế. Trong các vấn đề quốc tế và khu vực, Việt Nam luôn thúc đẩy cách tiếp cận đa phương và chủ nghĩa nhân văn, đề cao các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, đóng góp tích cực, có trách nhiệm vào duy trì hòa bình, ổn định và an ninh quốc tế, như cử hàng trăm lượt cán bộ, chiến sĩ tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc ở châu Phi, tích cực tham gia hòa giải, hỗ trợ nhân đạo và tìm giải pháp cho các xung đột trên thế giới,...
Thứ năm, bài học về đặc biệt coi trọng nghiên cứu, đánh giá và dự báo tình hình để có những quyết sách đối ngoại đúng đắn. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo đối ngoại qua các thời kỳ, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đặc biệt coi trọng công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, không ngừng đổi mới, phát triển tư duy, nhận thức về đối ngoại. Vận dụng nhuần nhuyễn phương châm “ngũ tri” (biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng và biết biến) trong đánh giá, dự báo tình hình quốc tế và trong nước, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra chủ trương, sách lược phù hợp đối với Hội nghị Giơ-ne-vơ nhằm bảo vệ cao nhất các lợi ích dân tộc cơ bản của Việt Nam trong điều kiện và khả năng của Việt Nam tại thời điểm đó.
Thế giới ngày nay đang trải qua những biến động lớn, xuất hiện nhiều vấn đề chưa từng có tiền lệ, cần nhạy bén đánh giá đúng xu thế phát triển của tình hình, nhận diện chính xác thời cơ và định vị đúng vị thế chiến lược của đất nước. Với thế và lực của Việt Nam chưa bao giờ có được như ngày nay, cần mạnh dạn vượt ra khỏi tư duy lối mòn, dám đổi mới sáng tạo, tìm cách làm mới vì lợi ích quốc gia - dân tộc; trên cơ sở đó, không ngừng hoàn thiện đường lối đối ngoại đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
Bên cạnh những bài học trên, nhiều bài học quý báu từ Hiệp định Giơ-ne-vơ cần tiếp tục được nghiên cứu, đánh giá và tổng kết, như bài học về sự lãnh đạo thống nhất, tuyệt đối của Đảng đối với mặt trận đối ngoại và ngoại giao; về xây dựng và phát triển lực lượng ngoại giao, trong đó xây dựng cán bộ ngoại giao là then chốt; về xử lý đúng đắn quan hệ với các nước láng giềng và các nước lớn, giữa lợi ích quốc gia - dân tộc và lợi ích chung của cộng đồng quốc tế, giữa “thế” và “lực” trong quan hệ quốc tế, giữa chiến lược và sách lược, giữa chính trị - quân sự và ngoại giao,...
Kỷ niệm 70 năm Ngày ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ là dịp ôn lại và làm sâu sắc hơn tầm vóc, ý nghĩa của một mốc son lịch sử hào hùng của dân tộc và nền ngoại giao Việt Nam, khơi dậy mạnh mẽ lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc và ý chí, nỗ lực vươn lên của thế hệ hôm nay. Phát huy truyền thống vẻ vang của ngoại giao Việt Nam và tinh thần Hiệp định Giơ-ne-vơ, toàn ngành ngoại giao cùng các ngành, các cấp dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo tư tưởng, phong cách và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh, nỗ lực xây dựng ngành ngoại giao vững mạnh toàn diện, hiện đại, đóng góp xứng đáng vào thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.